Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Phép xem mạng gà theo màu mắt

Phép này xuất phát từ sư kê Giáo Năm Gò Công, sau được anh Sơn Tân Định (son tandinh) phổ biến trên diễn đànwww.ganoi.com (toàn bộ nội dung và hình ảnh trong bài được lấy từ nguồn trên).

*Phép xem mạng gà dựa vào màu mắt được phát triển và áp dụng trên gà nòi, gà cựa miền Nam (chủ yếu đá cựa sắt). Xem mạng chủ yếu để cáp đá, việc tuyển lựa gà hay vẫn theo những cách thức thông thường, chẳng hạn như nòi giống hay xem tướng "nhất thủ, nhị vĩ, tam thân, tứ túc"...

*Mức độ quan trọng (quyết định thành bại): màu mắt 70%; màu chân & màu lông 20%; các yếu tố khác như ngày, giờ và vảy chỉ chiếm 10%. Hầu hết vảy gà đều áp dụng vào “nước khuya”, “mạnh đòn” vốn không có nhiều tác dụng đối với gà cựa (đá cựa sắt) vì ăn thua xảy ra trong chớp mắt!

*Cấu tạo mắt gà từ trong ra ngoài: 1/con ngươi/đồng tử (pupil), 2/giác mạc (iris, còn gọi là "tròng đen" nhưng cách gọi này không ổn vì giác mạc của người cũng như gà có nhiều màu sắc khác nhau): a) viền màu (xung quanh con ngươi) và b) nền màu vàng ở ngoài cùng; đôi khi có thêm áng mây (3/ củng mạc hay lòng trắng ở gà hầu như bị che khuất, không lộ ra ngoài).


*Mạng gà được xác định dựa vào viền màu xung quanh con ngươi. Về cơ bản có các màu sau đây: viền vàng, gạch=mạng thổ, viền đen=mạng thủy, viền trắng=mạng kim và viền xanh=mạng mộc; viền đỏ=mạng hỏa không tồn tại trên thực tế.

*Áp dụng ngũ hành tương sinh & tương khắc:

Gà “trắng” ăn gà “đen” & gà “xanh”, thua gà “vàng”
Gà “xanh” ăn gà “vàng” & gà “đen”, thua gà “trắng”
Gà “đen” ăn gà “xanh”, thua gà “trắng” và gà “vàng”
Gà “vàng” ăn gà “trắng” & gà “đen”, thua gà “xanh”

*Lưu ý: theo phép xem mạng màu mắt thì “sinh xuất” ăn “sinh nhập”! Chẳng hạn, “kim sinh thủy” --> kim ăn thủy (gà “trắng” ăn gà “đen”) (theo lý luận thông thường thì “sinh xuất” bị mất lực nên thua “sinh nhập” được bổ lực).

*Đa phần gà đá ngoài trường đều mạng mộc (70-80%), mạng kim (5-10%), mạng thổ (5-10%), mạng thủy (5%). Các sách tướng gà thường cho gà mắt đen (mạng thủy) là yếu, nhát; có lẽ vì vậy mà người ta ít mang gà đi đá. Bởi mạng thổ chiếm đa số nên đem gà mạng kim đi đá dễ ăn độ. Mạng thổ để dành đá với gà dữ ngoài trường (thường là mạng kim). Giả sử có con gà mạng hỏa thì nó sẽ hốt xác hết những con gà dữ mạng kim & mạng mộc ngoài trường!

*Ngoài viền mắt, một đặc điểm quan trọng nữa của phép xem mạng này là nặng tính thực tiễn. Mạng thổ và mạng thủy dễ đoán, trong khi mạng kim và mạng mộc khó đoán hơn; nếu viền trắng tinh thì có thể mạnh dạn đoán là “mạng kim” nhưng đa phần đều phớt xanh, khó đoán, người ta gọi nôm na là “xanh lên trắng”. Phải đem đá thử mới biết chắc; chẳng hạn đá với gà “xanh” nếu thắng gọn trong một, hai chân thì đó là gà “trắng”, nếu đá dằng dai thì cùng là mạng mộc, gà “xanh”. 

*Có nhiều con gà “mạng ẩn” tức màu mạng không thể hiện ra ngoài, chẳng hạn viền mắt xanh hoặc thậm chí vàng nhưng lại là mạng kim. Cách tốt nhất vẫn là đem đá thử độ nhỏ trong xóm; một khi biết chắc mạng gà rồi thì mới đá độ lớn. 

*Một số đặc điểm hỗ trợ việc đoán mạng:
>> Mạng kim thường có đuôi lau (lông đuôi trắng như bông lau).
>> Gà chân vàng với những bớt đen ở chân (không phải móng đen hay cựa đen) thì hầu như là mạng kim. 
>> Gà chân trắng với những bớt xanh ở chân thì hầu như là mạng mộc. 
>> Gà chân xanh và không có đuôi lau thì chắc chắn không phải mạng kim.

*Trường hợp gà cùng mạng thì lúc đó phải xem đến màu chân. Màu chân cũng tuân theo ngũ hành sinh khắc (liệt kê ở trên). Chẳng hạn, hai con gà mắt trắng thì con chân vàng sẽ ăn con chân trắng, nhưng khá chật vật vì dù sao cũng là anh em, chỉ trên cơ chút đỉnh. Nếu cùng màu chân thì sau cùng mới xem đến màu lông. Ngày, giờ và vảy không quan trọng đối với gà cựa.

*Đoán màu lông:
>>Nếu con gà màu vàng hoặc khét thì dù lông cánh thế nào cũng là gà vàng hoặc khét.
>>Nếu màu ô hoặc điều thì nếu cuối lông cánh nó màu đỏ thì là điều, còn nếu màu đen thì là ô. 
>>Gà điều chân xanh thì thành gà xanh và thuộc hành mộc như là gà xám nhưng dưới cơ gà xám. 
>>Gà xám bông trên cơ gà xám tuyền nhưng chỉ trên cơ chút đỉnh vì cơ bản nó vẫn là gà xám (ví dụ như gà vàng hay khét bông cũng đừng nên đụng gà xám vì về cơ bản chúng vẫn là vàng và khét).

Trích Nguyên văn bởi son tandinh
>>Nếu củng 1 màu thì chân trắng ăn chân xanh, xanh ăn vàng và vàng ăn trắng.
>>Tất cả con gà có bông đều lên cùng đẳng cấp với gà chuối, tức là dùng gà bông đá gà xám và gà cú là số 1, trừ con vàng hay khét bông.
>>Tất cả con gà cú đều cùng đẳng cấp với gà xám.
>>Gà nhạn cùng cấp với gà chuối.
>>Trong các màu thì thứ tự đỏ ăn vàng, vàng ăn đen, đen ăn đỏ, thí dụ gà xám son sẻ ăn xám vàng và xám vàng ăn xám đen và xám đen ăn xám đỏ.
>>Gà que mật cấp lớn nhất trong gà que (que nĩ ), sau đó là que sơn, ô que, ô mã lại.
>>Gà điều mà có màu vàng là thành gà vàng.
>>Gà vàng là anh của gà khét.

>>Tốt nhất là đừng cáp gà cùng màu đá với nhau vì là anh em nên có ăn củng trầy vi tróc vảy.
>>Thông thường anh dùng màu gà để đoán chính xác mạng con gà chứ ít khi nào chỉ đá theo màu gà. Thí dụ, khi con gà xám chỉ vài chân đá con gà chuối chết thì mạng nó trên hẳn gà chuối, từ đó sẻ phăng ra mạng của nó. (www.ganoi.com)
*Cách cáp gà:
>>Gà mình chắc chắn trên mạng & trên màu gà đối phương --> Đá lớn vì có nhiều khả năng thắng.
>>Gà mình chưa chắc trên mạng nhưng trên màu gà đối phương --> Đá vừa; nếu thấy đá dằng dai thì có thể gà địch cùng mạng, tùy cơ ứng biến mà “lội bạc”.
>>Gà mình chưa chắc trên mạng nhưng dưới màu gà đối phương --> Đá ít. Nếu đá hàng xáo thì độ này không nên cáp, ngồi ngoài quan sát để lấy kinh nghiệm.
>>Gà mình dưới mạng --> Bỏ không đá.

*Mắt vàng nhạt pha trắng, xung quanh lòng đen có viền xanh, đuôi lau ẩn, gà ăn độ --> 95% mạng kim.


*Nhiều khả năng là mạng mộc.


*Mắt đen --> mạng thủy.


*Mắt vàng gạch --> mạng thổ

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Kỹ thuật chăn nuôi gà thả vườn theo hướng An toàn sinh học

Chăn nuôi gà an theo hướng toàn sinh học (ATSH) nhằm đảm bảo an toàn dịch bệnh và đảm bảo vệ sinh môi trường do đó công tác tiêu độc vệ sinh sát trùng phải được thực hiện thường xuyên. Trước khi nuôi phải xông xịt sát trùng chuồng trại theo quy định. Trong suốt quá trình nuôi mỗi tuần xịt toàn bộ chuồng trại và khu vực xung quanh (trừ máng ăn, máng uống) 1 lần. Xịt từ tuần thứ 1 đến tuần thứ 10 bằng dung dịch Biocide 2% với 0,5 lít/m2 chuồng trại lúc trời nắng.
DSC019501. Chuẩn bị điều kiện nuôi
Trước khi đem gà về nuôi cần chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện vật chất, kỹ thuật như:
- Chuồng nuôi, rèm che, cót quây, chụp sưởi ấm, máng ăn, máng uống. Tất cả phải được khử trùng trước khi sử dụng từ 5-7 ngày.
- Chuẩn bị đầy đủ thức ăn, thuốc thú y, vaccine cần thiết cho đàn gà.
- Chuồng nuôi phải đảm bảo thoáng mát mùa hè, kín ấm vào mùa đông.
- Nền chuồng thiết kế đúng kỹ thuật, cao ráo, thoát nước.
- Chất độn chuồng: Trấu, dăm bào sạch, dày 5cm -10cm được phun sát trùng trước khi sử dụng.
- Đảm bảo lưu thông không khí trong chuồng nuôi.
a. Chuồng trại
- Chọn khu đất cao ráo, thoáng mát để xây dựng chuồng gà. Nên làm chuồng theo hướng Đông hoặc Đông Nam để hứng được nắng buổi sáng và tránh được nắng buổi chiều.
- Nếu nuôi nhốt hoàn toàn, chú ý mật độ nuôi thích hợp (8 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên sàn; 10 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên nền).
- Nếu nuôi gà thả vườn, chuồng là nơi để tránh mưa nắng và ngủ đêm, mật độ vườn thả gà đủ điều kiện ít nhất 1con/m2.
- Mặt trước cửa chuồng hướng về phía Đông Nam. Sàn chuồng làm bằng lưới hoặc tre thưa cách mặt đất 0,5m để tạo độ thông thoáng, khô ráo, dễ dọn vệ sinh.
- Rào chắn xung quanh vườn bằng lưới B40, lưới nilon, tre gỗ... tùy điều kiện nuôi của từng hộ. Ban ngày khô ráo thả gà ra sân, vườn để gà có khỏang không chơi, buổi tối cho gà về chuồng.
b. Lồng úm gà con
- Kích thước 2m x 1m, cao chân 0,5m đủ nuôi cho 100 con gà.
- Sưởi ấm cho gà bằng đèn (hai bóng 75W dùng cho 100 con gà).
c. Máng ăn
- Khi gà còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) rải thức ăn trên giấy lót trong lồng úm cho gà ăn.
- Khi gà 4-14 ngày tuổi cho gà ăn bằng máng ăn cho gà con.
- Trên 15 ngày cho gà ăn máng treo.
d. Máng uống
Đặt hoặc treo xen kẽ các máng uống với máng ăn trong chuồng hoặc vườn. Thay nước sạch cho gà 2-3 lần/ngày.
e. Bể tắm cát, máng cát sỏi cho gà
- Gà rất thích tắm cát.
- Đối với gà nuôi chăn thả phải xây bể chứa cát, tro bếp và diêm sinh cho gà tắm. Kích thước bể dài 2m, rộng 1m, cao 0,3m cho 40 gà.
- Đặt một số máng cát, sỏi hoặc đá nhỏ xung quanh nơi chăn thả để gà ăn, giúp gà tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
f. Dàn đậu cho gà
- Gà có tập tính thích ngủ trên cao vào ban đêm để tránh kẻ thù và giữ ẩm cho đôi chân, tránh nhiễm bệnh. Do đó nên tạo một số dàn đậu cho gà ngủ trong chuồng.
- Dàn đậu làm bằng tre, gỗ (không nên làm bằng cây tròn vì trơn gà khó đậu). Dàn cách nền chuồng khoảng 0,5m, cách nhau 0,3-0,4m để gà khỏi đụng vào nhau, mổ nhau và ỉa phân lên nhau.
Làm ổ đẻ cho gà để nơi tối. Một ổ đẻ cho 5-10 con gà mái.
Vườn chăn thả: 1 m2/ 1gà.
2. Chọn giống
- Nuôi thịt: Chọn giống gà Tàu vàng, gà Đông Tảo, gà Nòi, gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng.....
- Nuôi gà lấy trứng thương phẩm: Chọn những giống gà đẻ nhiều như gà Tàu Vàng, gà Tam Hoàng, gà BT1, gà Ri....
Chọn giống gà con
- Chọn gà con càng đồng đều về trọng lượng càng tốt.
- Chọn những con nhanh, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập.
- Tránh chọn những con gà khô chân, vẹo mỏ, khoèo chân, hở rốn, xệ bụng, lỗ huyệt bết lông, cánh xệ, có vòng thâm đen quanh rốn.
Chọn gà đẻ tốt
- Chọn con có trọng lượng không quá thấp, không quá mập, lúc 20 tuần tuổi đạt 1,6-1,7 kg thì rất tốt.
- Đầu nhỏ, mỏ ngắn đều, mồng tích to, đỏ tươi.
- Mắt sáng, lông mượt xếp sát vào thân, bụng phát triển mềm mại.
- Hậu môn rộng màu hồng tươi và ẩm ướt.
- Khoảng cách giữa xương chậu và xương ức rộng độ 3-4 ngón tay, giữa hai xương chậu rộng gần 2-3 ngón tay xếp lại.
3. Chăm sóc nuôi dưỡng
- Nên vận chuyển gà con vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, tránh những ngày mưa bão hay áp thấp nhiệt đới. Đưa gà vào chuồng úm, cho gà uống nước pha Electrotyle hoặc VitamineC, chỉ cho gà ăn tấm nấu hoặc tấm, bắp nhuyễn ngâm sau khi gà nở ít nhất là 12 giờ, tiếp tục cho ăn uống như thế đến 2 ngày. Sang ngày thứ 3 thì pha với lượng tăng dần thức ăn công nghiệp hoặc tự trộn phụ phế phẩm.
- Trộn thuốc cầu trùng vào trong thức ăn cho gà từ ngày thứ 7 trở đi, dùng Rigecoccin 1gr/10kg thức ăn (hoặc dùng Sulfamid trộn tỷ lệ 5%).Thay giấy lót đáy chuồng và dọn phân mỗi ngày sạch sẽ.
- Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ, quan sát tình trạng ăn uống đi đứng của gà, nếu thấy con nào buồn bã, ủ rũ cần cách ly ngay để theo dõi.
- Dùng bóng đèn tròn 75W úm cho 1m2 chuồng có che chắn để giữ nhiệt, tùy theo thời tiết mà tăng giảm lượng nhiệt bằng cách nâng hoặc hạ độ cao của bóng đèn.
- Quan sát thấy nếu gà nằm tụ quanh bóng đèn là gà bị lạnh, tản xa bóng đèn là nóng, nằm tụ ở góc chuồng là bị gió lùa và gà đi lại ăn uống tự do là nhiệt độ thích hợp.Thắp sáng suốt đêm cho gà trong giai đoạn úm để phòng chuột, mèo và để gà ăn nhiều thức ăn hơn.
- Thường xuyên quan sát biểu hiện của đàn gà để kịp xử lý những bất thường xảy ra. Khi thời tiết thay đổi nên cho gà uống nước pha Electrolyte hoặc Vitamine C.
- Do tập tính của gà thường uống nước cùng lúc với ăn, nên đặt máng ăn và máng uống cạnh nhau để gà được uống nước đầy đủ mà không uống nước dơ bẩn trong vườn.
- Nếu là gà nuôi thịt thì không cần cắt mỏ. Đối với gà đẻ để giảm hiện tượng cắn mổ nhau thì nên cắt mỏ (chỉ cắt phần sừng của mỏ) vào tuần 6-7.
Ánh sáng: Dùng ánh sáng tự nhiên ban ngày, ban đêm thắp đèn cho gà ăn tự do, dùng máng ăn tự động hình trụ 50 con/máng đổ đầy thức ăn cho 1 ngày đêm, sáng sớm trước khi cho ăn nên kiểm tra và loại bỏ thức ăn thừa hoặc phân trấu dính vào máng ăn. Không thả rèm (chỉ thả khi trời mưa bão lạnh). Cứ 2 tuần 1 lần cân 10% tổng số gà để tính trọng lượng bình quân.
- Chú ý trong khi nuôi hoặc chủng ngừa cần loại những con còi cọc, nhốt và nuôi riêng để đạt tỷ lệ đồng đều cao.
- Phân gà được hốt dọn thường xuyên (nếu nuôi lồng) hoặc cuối đợt (nếu nuôi trên nền trấu) và phải được đem ủ kỹ với vôi bột 3 tháng sau mới đem dùng.
- Khi gà đạt trọng lượng 2kg thì xuất bán. Chú ý xuất và chở gà đi lúc trời mát và xe chuyên dùng phải có hệ thống thông gió tránh gà chết ngạt hàng loạt. Nếu chở đi xa tốt nhất chở vào ban đêm tới nơi giết thịt trời vừa sáng là tốt nhất.
- Phải đưa gà đến các cơ sở giết mổ tập trung và phải có dấu của thú y mới được bán.
Chú ý: Không nuôi nhiều cỡ gà trong 1 chuồng, trước khi nuôi đợt mới cần phải sát trùng toàn bộ chuồng trại, dụng cụ.
4. Thức ăn cho gà
- Gà là một trong số con vật nhạy cảm, nên tuyệt đối không cho gà ăn thức ăn bị ôi mốc, nhiễm nấm, thối rữa.
- Có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc tận dụng các phụ phế phẩm công nông nghiệp, sao cho đảm bảo các thành phần: Năng lượng, đạm, khoáng và Vitamine. Khống chế lượng thức ăn và đảm bảo chất lượng thức ăn đối với gà hậu bị để gà không bị mập mỡ làm giảm sản lượng trứng.
- Đối với gà thả vườn thì vấn đề khoáng và vitamine không quan trọng bằng gà nuôi nhốt, vì chúng sẽ tự tìm kiếm theo nhu cầu của cơ thể.
Sau giai đoạn úm có thể cho gà ăn thêm rau xanh. Nên nuôi thêm trùn đất và giòi là nguồn cung cấp đạm dồi dào cho gà.
- Ngày đầu tiên chỉ cho gà uống nước, ăn tấm hoặc bắp nhuyễn. Thức ăn mỗi lần rải một ít để thức ăn luôn thơm ngon kích thích tính thèm ăn của gà.
- Những ngày kế tiếp tập dần cho gà ăn sang thức ăn công nghiệp. Cho gà ăn nhiều bữa trong ngày, ăn tự do.
- Nếu sử dụng máng treo để cho gà phải thường xuyên theo dõi điều chỉnh độ cao của máng để gà ăn một cách thoải mái và tránh rơi vãi thức ăn.
- Nước uống phải sạch và đầy đủ cho gà uống, gà sống lâu hơn nếu thiếu thức ăn hơn thiếu nước.
- Cho gà ăn tự do suốt quá trình nuôi, để đèn ban đêm cho gà ăn càng nhiều càng tốt, khi chuyển thức ăn từ loại này sang loại khác phải làm từ từ. Phương pháp chuyển thức ăn như sau:
Ngày
Thức ăn số 1(%)
Thức ăn số 2 (%)
1
75
25
2
50
50
3
25
75
4
0
100
5. Vệ sinh phòng bệnh
- Vệ sinh phòng bệnh là công tác chủ yếu, đảm bảo "Ăn sạch, ở sạch, uống sạch". Nền chuồng và vườn thả phải luôn khô ráo, sạch sẽ, không để ao tù nước đọng trong khu vườn thả.
- Áp dụng nghiêm ngặt lịch phòng vaccine tuỳ theo từng địa phương. Ngoài ra, dùng kháng sinh phòng một số bệnh do vi trùng, đặc biệt đối với gà thả nền thì cần phải phòng bệnh cầu trùng khi cho xuống nền và thả vườn.
a. Những nguyên nhân gây bệnh
- Gia cầm non, gia cầm bị suy yếu, giống mẫn cảm với bệnh.
- Môi trường sống:
+ Thức ăn không cân bằng dinh dưỡng dễ làm con vật mắc bệnh.
+ Nước uống phải sạch.
+ Không khí, nhiệt độ ....
b. Sức đề kháng của cơ thể gia cầm
- Mỗi con vật đều có một hàng rào cơ học để tự bảo vệ cơ thể.
- Sức đề kháng do con người tạo bằng cách tiêm các loại vaccin phòng bệnh (sức đề kháng chủ động).
c. Các biện pháp vệ sinh phòng bệnh
+ Vệ sinh phòng bệnh
- Thức ăn tốt.
- Nước sạch.
- Con giống có khả năng chống đỡ với bệnh tật cao.
- Chuồng nuôi sạch.
- Quanh chuồng nuôi phải phát quang.
- Thực hiện tốt qui trình thú y về vệ sinh phòng bệnh.
+ Phòng bằng Vaccine
Lịch chủng ngừa
STTNgày tuổiLoại VacxinCách dùng
13 ngàyNiu-cat-xơn hệ 2 (lần1)Nhỏ mắt
27 ngàyGumburo (lần 1) + ĐậuNhỏ mắt, chích cánh
314 ngàyGumburo lần 2Nhỏ mắt
421 ngàyNiu-cat-xơn (lần 2) + IBNhỏ mắt
528 ngàyGumburo (lần 3)Nhỏ mắt
649 ngàyCúm gia cầm H5N1Chích bắp thịt
Chú ý: Lịch chủng ngừa trên chỉ là tham khảo, tùy từng vùng người nuôi có quy trình chủng ngừa phù hợp. Trong qúa trình nuôi nếu đến lịch chủng ngừa mà gà có biểu hiện bệnh thì không chủng mà phải điều trị cho gà khỏi hẳn thì mới chủng ngừa, nếu gà đang bị bệnh mà chủng ngừa thì gà sẽ bệnh nặng thêm và hiệu lực của vaccine cũng giảm.
+ Lưu ý khi dùng vaccine phòng bệnh
- Chỉ dùng khi đàn gia cầm khỏe.
- Lắc kỹ vaccine trước và trong khi dùng.
- Vaccine mở ra chỉ sử dụng trong ngày, dư phải hủy bỏ.
Dùng vitamin để tăng bồi dưỡng cho gia cầm.
+ Phòng bằng thuốc:
- Bệnh ở đường tiêu hóa: Oxyteracilin, chloramphenicol...
- Bệnh đường hô hấp: Tylosin, Tiamulin,...
Không dùng một loại kháng sinh liên tiếp trong các liệu trình. Mỗi liệu trình phòng bệnh khoảng 3-4 ngày là đủ
6. Một số bệnh thường gặp ở gà
6.1. BỆNH CẦU TRÙNG
Nguyên nhân: Bệnh lan truyền do gà ăn phải thức ăn, uống nước có lẫn các noãn bào. Bệnh dễ lây truyền từ chuồng này sang chuồng khác, nơi này sang nơi khác do con người, súc vật... vô tình mang các noãn bào này đi xa. Tốc độ sinh sản nhanh của các cầu trùng khiến bệnh dễ bộc phát.
Bệnh cầu trùng thường làm tăng tỷ lệ tử vong cho gà nhỏ, gà phát triển chậm, yếu, dễ bị bội nhiễm các bệnh khác.
Mức độ gây bệnh tùy thuộc vào phương thức nuôi, nuôi trên sàn lưới ít mắc bệnh hơn nuôi trên nền.
Triệu chứng: Gà ủ rũ, xù lông, chậm chạp, phân đỏ hoặc sáp nhiều khi có máu tươi. Gà đẻ vỏ trứng mỏng, tỷ lệ đẻ giảm.
Bệnh tích: Manh tràng sưng to, chân đầy máu. Ruột sưng to. Trong đường tiêu hóa có dịch nhầy và máu.
Phòng bệnh: Vệ sinh phòng bệnh chặt chẽ, đặc biệt không để nền chuồng, chất đọng làm chuồng ẩm ướt.
- Dùng thuốc trộn vào thức ăn hay pha nước uống cho gà.
- Sử dụng một trong các loại thuốc sau (dùng trong 3 ngày): Anticoc 1gr/1 lít nước; Baycoc 1ml/ 1 lít nước.
Trị bệnh: Tăng liều gấp đôi liều phòng.
6.2. BỆNH THƯƠNG HÀN (Salmonellosis)
Nguyên nhân: Do vi khuẩn gây ra, bệnh có thể truyền trực tiếp từ gà mẹ sang gà con và cũng có thể nhiễm gián tiếp qua thức ăn, nước uống bị nhiễm mầm bệnh.
Triệu chứng: Gà ủ rũ, phân trắng loãng, hôi thối. Gà đẻ trứng giảm, trứng méo mó, mào tái nhợt nhạt hoặc teo.
Bệnh tích:
Gà con: Gan sưng, có điểm hoại tử trắng, niêm mạc ruột viêm loét lan tràn.
Gà đẻ: Gan có điểm hoại tử trắng, túi mật sưng to, buồng trứng đen tím, trứng non dị hình méo mó.
Phòng bệnh: Bằng các biện pháp vệ sinh tổng hợp. Có thể dùng kháng sinh để phòng bệnh: Oxytetracyclin: 50-80mg/gà/ngày, dùng trong 5 ngày. Chloramphenical: 1gr/5-10 lít nước, dùng trong 2-3 ngày.
Trị bệnh: Tăng liều gấp đôi so với liều phòng bệnh.
6.3. BỆNH DỊCH TẢ (Newcastle disease)
Nguyên nhân: Bệnh do virus gây ra, bệnh lây lan mạnh. Chủ yếu lây qua đường tiêu hóa, tuy nhiên bệnh cũng có thể lây qua dụng cụ chăn nuôi. Gà ở mọi lứa tuổi đều mắc bệnh.
Triệu chứng: Thường biểu hiện ở 2 thể: Cấp tính và mãn tính.
+ Thể cấp tính: Bệnh xuất hiện đột ngột, gà chết nhanh không biểu hiện rõ triệu chứng. Thường rụt cổ, ngoẹo đầu vào cánh, ủ rũ, nhắm mắt mê man bất tỉnh, sau đó chết.
- Khó thở, nhịp thở tăng, hắt hơi (con vật há mồm, vươn cổ thở).
- Tiêu chảy phân màu xanh - trắng, diều căng đầy hơi.
- Một số con chảy dịch nhờn ở mắt, mũi. Tích, mào tím xanh.
Nếu sau 4-5 ngày gà không chết sẽ xuất hiện triệu chứng thần kinh: Gà vận động tròn theo một phía, đi đứng không vững. Gà giảm đẻ, vỏ trứng mềm.Tỷ lệ chết từ 50-90%.
Thể mãn tính: Những gà bị bệnh kéo dài sẽ chuyển sang thể mãn tính. Triệu chứng chủ yếu ở đường hô hấp, thở khò khè, kém ăn, giảm đẻ.... Gà trở thành vật mang trùng. Tỷ lệ chết 10%.
Bệnh tích: Biến đổi tùy thuộc vào thời gian kéo dài bệnh, lứa tuổi và độc lực của virus. Dạ dày tuyến xuất huyết, có dịch nhầy ở ruột già.
Phòng bệnh: Chủ yếu là bằng vaccine.
Trị bệnh: Dùng các thuốc tăng sức đề kháng:Vitamix, vit-plus,...
6.4. BỆNH GUMBORO
Nguyên nhân: Do virus. Gà thường mắc bệnh ở 4-8 tuần tuổi.
Triệu chứng: Phân lúc đầu loãng, trắng, nhớt nhầy, sau loãng nâu.
- Gà sút nhanh, run rẩy. Tỷ lệ nhiễm bệnh rất nhanh: 2-5 ngày toàn đàn bị nhiễm.Tỷ lệ chết: 10-30%.
- Gà thịt thường phát bệnh sớm hơn (ở giai đoạn 20-40 ngày).
Bệnh tích: Cơ đùi xuất huyết đỏ thành vệt. Bệnh mới phát túi Fabricius sưng to.
- Ngày thứ 2: Thận sưng nhạt màu, ruột sưng có nhiều dịch nhầy.
- Ngày thứ 3: Xuất huyết lấm tấm hoặc thành vệt cơ đùi, cơ ngực.
- Ngày thứ 5,6,7 túi Fabricius teo nhỏ, cơ đùi, cơ ngực tím bầm.
Phòng và trị bệnh:
- Phòng bệnh bằng vệ sinh: Định kỳ tiêu độc sát trùng chuồng trại thường xuyên mỗi tháng và sau mỗi đợt nuôi.

- Phòng bằng vaccine.

Nguồn : sưu tầm

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Kỹ thuật nuôi gà đá cựa sắt thế nào?

Sau khi đã chọn được con gà ưng ý, đạt các tiêu chuẩn yêu cầu, điều tiếp theo sẽ là chăm sóc và huấn luyện nó trở thành 1 chiến kê thực thụ. Ở Phần này, Ba Gà tôi sẽ đi thật sâu sát, mỗi mục nhỏ sẽ phân tích kỹ, chỉ dẫn rõ ràng cho các bạn dễ áp dụng vào thực tế. Chính vì nội dung phải thật đầy đủ và chính xác nên có thể việc Update các mục mới sẽ lâu hơn trc đây, mong các bạn thông cảm. 
Thấy cm của các bạn có yêu cầu Hướng dẫn cách nuôi Gà mau tới đá, đầy pin, cách nuôi tang, chữa bệnh, cách trồng cựa, nài Gà... Hic, Ba Gà tôi làm Cty giờ hành chính, chiều đón con đi học về, sinh hoạt gia đình đến 10h tối mới viết bài đc nên có chăng chỉ đáp ứng đc yêu cầu của những bạn nằm trong phần update hằng ngày. Bởi chính vì Topic này là Hướng dẫn “người mới chơi” nên Ba Gà tôi phải hướng dẫn theo thứ tự, mong các bạn thông cảm, theo dõi Topic nhé!
Phần này cũng quan trọng ko kém Phần chọn Gà, cũng chiếm tỉ lệ 10% chiến thắng khi thi đấu.
I. Nuôi Gà khỏe:
Dường như 1 con gà sau khi mua về, 20% là chiến đấu liền hoặc 1-2 ngày sau đó, 70% là khoảng 7-10 ngày, còn lại là các lý do khác như: Gà bị chói nước, bị bệnh, Gà tới nhưng người chưa tới mới ko đá… Nhưng bảo đảm rằng 100% Gà đều bị vô “Chế Độ Đá” liền. Có người vừa đem về đến nhà là cho xổ liền với Gà nhà, ko thì xuống lông vô nghệ, chạy bội, vô mồi nhằm mục đích cho con Gà mau đầy pin, mau tới Gà. Nhưng tất cả đều là những điều làm cho con Gà của bạn kiệt sức (đối với Gà già), lõn lẽn (đối với gà tơ) hoặc hư Gà (đối với Gà độ). Sau đây, Ba Gà tôi sẽ hướng dẫn thứ tự các bước Nuôi Gà Khỏe trước khi vô Chế Độ Đá.
1)Xác định Chạng Gà:
Đa số chỉ vô tay thấy như cục sắt, cục thép là hài lòng, và cho rằng cân nặng lúc đó là Chạng Gà. Điều đó chưa thực sự hợp lý, vì biết đâu rằng, ta đã vô tình ép Chạng Gà mà ko biết. Các đấu thủ Quyền Anh hay các VĐV Thể Hình vẫn thường xuyên ép cân nặng của mình nhằm đạt đc mục đích thi đấu thì Gà cũng có thể làm đc. Ba Gà tôi chỉ phân tích các khía cạnh xung quanh vấn đề xác định chính xác Chạng Gà chứ ko nói đến việc ép Chạng Gà là tốt hay xấu nhé, vì tùy mục đích thi đấu mà các bạn có thể tùy ý thực hiện.
a)Khi biết Chạng Gà Bố Mẹ:
“Chó giống cha, Gà giống mẹ”
X: Chạng Gà Bố
Y: Chạng Gà Mẹ
Z: Chạng Gà Con trung bình
Z1: Chạng Gà Con (Trống)
Z2: Chạng Gà Con (Mái)
Công thức tính Chạng Gà con : (Thanks A Q.Thanh ở Đồng Tháp đã chia sẻ công thức này)
Z = Y + Y(X-Y)/3000
Z1 = Z + (X-Z)/2
Z2 = Z - (Z-Y)/2
VD: Chạng Gà Bố là 1.100g, Chạng Gà Mẹ là 800g thì Gà con trung bình sẽ có Chạng là 880g. Gà Trống con sẽ có Chạng là 990g, Gà Mái con sẽ có Chạng là 840g.
Ngoài ra, còn có những trường hợp Gà bị đẽn do bẩm sinh, còi do bị giành thức ăn hoặc chế độ dinh dưỡng thiếu thốn, ko phù hợp, ko đủ chất mà Gà ko thể đạt được Chạng tiêu chuẩn của nó.
b)Khi ko biết Chạng Gà Bố Mẹ:
Để xác định Chạng Gà khi ko biết Chạng Gà Bố Mẹ, bạn phải xác định được tuổi Gà. Trung bình, Gà phát triển đầy đủ thể chất hết vào khoảng tháng thứ 12-14. Ở độ tuổi này, Gà sẽ dừng phát triển thể chất, bạn có thể xác định Chạng Gà. Vào tháng thứ 12, có 2 trường hợp:
TH1: Nếu Gà ốm, bạn phải tích cực vỗ béo Gà, nếu thực hiện đúng chế độ, Gà sẽ tăng cân đều đặn trong 2-3 tuần, đến khi thấy trong khoảng từ 3-5 ngày Gà dừng tăng cân thì lúc này, Gà đã đạt trọng lượng tối đa. Thời điểm này, Gà đã tròn 12 tháng. 
Tiếp theo, cho Gà vào chế độ giảm mỡ, nếu thực hiện đúng Gà sẽ giảm cân từ từ trong 2-3 tuần, đến khi thấy trong khoảng từ 5-7 ngày Gà dừng giảm cân thì lúc này, Gà của bạn sẽ hết mỡ và có cân nặng = Chạng của nó.
TH2: Nếu Gà mập, bạn thực hiện chế độ giảm mỡ như trong TH1.
Lưu ý, trong khoảng thời gian xác định Chạng Gà, tuyệt đối nghiêm cấm xổ Gà.
***Cách xác định tuổi Gà khi ko nuôi từ trứng***
Vào khoảng tháng thứ 6-7 thì lông cánh gà sẽ mọc đầy đủ và chia làm hai nhóm rõ rệt. Nếu tính từ ngoài vào thì Nhóm lông ngoài cùng là Nhóm lông bay, đầu lông nhọn và dài. Phía trong là Nhóm lông lượn, đầu lông tròn và cong. Giữa hai Nhóm lông này có 1 lông nhỏ mọc thấp hơn và tách riêng ra, để phân ranh giới giữa hai Nhóm lông trên được gọi là lông trục.
Hướng dẫn Người mới tập chơi Gà Tre Đá Cựa Sắt cơ bản nhất! (Topic Thảo Luận)
Hình 1: Lông trục
Mùa thay lông thứ 1 của gà khoảng từ tháng 4 đến tháng 5, khi thay lông thì có thêm một lông mới nhỏ hơn mọc thêm gần lông trục gọi là lông tuổi, lông này có đầu tròn, nằm đè lên lông trục.
Hướng dẫn Người mới tập chơi Gà Tre Đá Cựa Sắt cơ bản nhất! (Topic Thảo Luận)
Hình 2: Lông tuổi
Hướng dẫn Người mới tập chơi Gà Tre Đá Cựa Sắt cơ bản nhất! (Topic Thảo Luận)
Hình 3: Gốc lông của Gà 10 tháng tuổi
Cứ 12 tháng sau là đến kỳ thay lông tiếp theo của Gà, sẽ có thêm 1 lông tuổi khác mọc lên nữa.
_ Gà chưa có lông tuổi : dưới 5 tháng tuổi
_ Gà có 1 lông tuổi (gốc lông tuổi còn máu): từ 5-7 tháng tuổi
_ Gà có 1 lông tuổi (gốc lông tuổi đã khô máu): từ 8-16 tháng tuổi
_ Gà có 2 lông tuổi (gốc lông tuổi mới còn máu): từ 17-19 tháng tuổi
_ Gà có 2 lông tuổi (gốc lông tuổi m
ới
đã khô máu): từ 20-28 tháng tuổi
Tuổi rất quan trọng với Gà đá, Gà trưởng thành từ khoảng 12-14 tháng tuổi. Gà đạt tuổi này thì khi thi đấu mới lỳ và khôn. Gà tuổi này vẫn cự mạnh với đối thủ có trọng lượng gấp 2-3 lần nó và xổ đc trên 5 chân ko chạy. Nếu bạn bỏ qua phần xác định tuổi Gà vì thấy Gà sung và đá hay thì % thua sảng sẽ rất cao, vì bạn cứ nghĩ xem, đưa 1 cậu bé to xác đánh với 1 người lớn thì kết quả sẽ như thế nào?
***Cách vỗ béo Gà***
(Đối với Chạng Gà 1kg)
Nhốt chuồng nhỏ ko thả và chế độ dinh dưỡng như sau:
_ Lúa: 2 cử/ngày, ăn đến khi ko ăn nữa.
_ Rau: 1 cử/ngày, vừa đủ.
_ Mồi: cách 1 ngày 1 cử, sâu supper worm 30 con hoặc dế 15 con hoặc 60g thịt bò... 
_ Vitamin B1,B2: 100mg/ngày
_ Vitamin A+D3, E: cách 1 ngày 1 viên
_ Phariton : cách 5 ngày 1 viên
***Cách giảm mỡ Gà***
(Đối với Chạng Gà 1kg)
_ Quần bội ngày 2 lần, mỗi lần 10 phút
_ Thả lang ngày 3 lần, mỗi lần 20 phút
_ Lúa: 2 cử/ngày, mỗi cử 70 hạt
_ Rau: xà lách, giá, mau muống... ăn đến khi ko ăn nữa
_ Mồi: 1 cử/tuần, sâu supper worm 10 con hoặc dế 7-8 con hoặc 20g thịt bò... 
_ Vitamin B1,B2: 100mg/ngày
_ Vitamin B6, B12: cách 2 ngày viên
_ Vitamin A+D3, E: cách 1 ngày 1 viên
2) Phòng chữa bệnh:
“Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”
Gà cũng như người, khi có bệnh sẽ rất uể oải, ủ rủ, yếu ớt. Đập cánh và gáy còn ko nổi thì nói gì đến chuyện đấm đá. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng Gà mắc bệnh, nhưng phần lớn là do con người ta gây nên cho nó. Môi trường và dinh dưỡng là 2 yếu tố rất wan trọng nhằm phòng bệnh hiệu quả nhất. Sau đây Ba Gà tôi sẽ phân tích một số điểm cần lưu ý về Chuồng trại, Thức ăn và cách chăm sóc hiệu quả nhất trong vấn đề Phòng chống bệnh cho Gà.
a) Chuồng trại:
Hiện nay, có rất nhiều cách xây dựng chuồng khác nhau, các kiểu chuồng thì rất đa dạng và sáng tạo, từ đơn giản như chuồng tre nứa, chuồng vải bạt cho đến phức tạp, tốn kém như chuồng Tre lưới cá, chuồng Bê tông lưới B40, chuồng Cọp… Nhưng phổ biến nhất hiện nay là dạng chuồng dãy xây bằng gạch ống và xi măng, rất kiên cố, tiết kiệm diện tích, và chống trộm hiệu quả. Có người còn đầu tư riêng chuồng nhốt ban ngày và chuồng ngủ ban đêm cho Gà nhằm chống kê tặc. Sau đây là 1 số hình ảnh về các kiểu chuồng, các bạn có thể tham khảo:
Hướng dẫn Người mới tập chơi Gà Tre Đá Cựa Sắt cơ bản nhất! (Topic Thảo Luận)
Chuồng ngủ: sử dụng lưới nhuyễn chống muỗi,
đc thiết kế nhỏ gọn vừa đủ cho gà nằm ngủ,
tiết kiệm ko gian và có thể để trong nhà phòng chống kê tặc.

Hướng dẫn Người mới tập chơi Gà Tre Đá Cựa Sắt cơ bản nhất! (Topic Thảo Luận)
Chuồng Cọp.
Hướng dẫn Người mới tập chơi Gà Tre Đá Cựa Sắt cơ bản nhất! (Topic Thảo Luận)
Chuồng dãy: xây bằng gạch ống và lưới, thường dùng cho Trang trại
Hướng dẫn Người mới tập chơi Gà Tre Đá Cựa Sắt cơ bản nhất! (Topic Thảo Luận)
Chuồng sắt mang tính thẩm mĩ cao, thích hợp nuôi trong Thành thị.

Một điều cần lưu ý là cho dù sử dụng bất cứ kiểu chuồng nào cũng đều phải đảm bảo đc:
_ Vệ sinh: phải thường xuyên dọn dẹp phân tiêu hoặc thay chất độn chuồng, đảm bảo ko có mùi hôi, kí sinh trùng, ruồi nhặng nơi chuồng gà.
_ Chuồng phải thiết kế sao cho khô thoáng ban ngày, kín gió ban đêm.
_ Khử trùng và tiêu độc ít nhất 2 tháng/lần.
b) Dinh dưỡng:
*** Lúa ***
Thông thường, sau khi mua về, các bạn chỉ ngâm lúa wa 1 lần khoảng 30 phút rồi chắt nước và cho Gà ăn. Nhưng theo các Sư Kê mà Ba Gà tôi từng gặp cho biết: Vì lúa là thức ăn chính dành cho Gà đá nên ko thể phớt lờ vấn đề này đc. Chọn lúa cho gà ăn, phải là loại lúa tốt, tròn, chắc hạt, nhặt kỹ hạt lép, các thứ dơ bẩn, rồi đãi trong nước sạch, lại phơi khô và cho gà ăn. Tránh ngâm Lúa wa đêm vì có thể lúc này Lúa đã nảy những mầm nhỏ, chứa nhiều độc tố ko tốt cho Gà. Đó là lý do tại sao sau khi đãi Lúa trong nước sạch, các Sư Kê lại phơi khô rồi mới cho gà ăn vì nếu ko may Gà bị ko tiêu thì Lúa ngâm có điều kiện nảy mầm trong bầu diều Gà.
*** Rau xanh ***
Các loại rau xanh có rất nhiều Vitamin K, thành phần giải độc hữu hiệu trong tự nhiên, ngoài ra còn cung cấp các khoáng chất, các nguyên tố vi lượng, làm giảm thân nhiệt cho Gà trong những ngày nóng. Các loại rau phổ biến thường dùng như: xà lách, giá, rau muống. Riêng cà chua, một số Sư Kê cho rằng loại trái này làm gà yếu đường ruột, đi phân lỏng, ko tốt khi Gà đang trong “Chế độ đá”.
*** Mồi ***
Mồi giúp bổ sung các chất đạm, protein, hồi phục sức khỏe và tăng độ hưng phấn cho Gà đá. Hiện nay, các Sư Kê khuyên dùng Sâu Supper Worm trong bữa Mồi cho Chiến Kê nhưng các bạn có thể linh động với những loại Mồi có sẵn hoặc ít tốn kém. Sau đây là các loại Mồi thường dùng cho Gà đá và công dụng chính của chúng:
_ Sâu Supper Worm (12k/100g): kích thích hưng phấn cho thi đấu (thường là khẩu phần Mồi trong “Chế độ đá”), kích thích thay lông (thúc đẩy quá trình thay lông, góp phần giúp lông óng mượt, chắc khỏe)
_ Lươn con (10k/~10 con): Bổ sung máu (dành cho Gà bị tái mặt, tím mồng)
_ Thịt bò (22k/100g): Phát triển cơ (dành cho Gà bị suy, ốm, gió nhẹ)
_ Tép (7k/100g): Hỗ trợ chắc xương
_ Cá chép con (13k/100g): Dành cho Gà đang giảm cân
_ Dế (17k/100g): dùng trong những ngày giá rét, dế có tính nhiệt.
*** Phụ Gia ***
Các loại phụ gia như :
_ Tỏi: rất tốt cho hệ tiêu hóa, thông thường các Sư Kê vẫn cho Gà ăn kèm thêm 1 ít tỏi sau bữa chiều nhằm tránh chứng khó tiêu và tỏi có tác dụng rất tốt giúp Gà ko bị Gió.
_ Gừng: có tác dụng làm ấm Gà khi thời tiết mưa gió nhiều hoặc sang mùa đông. 1 ít gừng giã nhuyễn trc khi cho Gà vào chuồng sẽ giúp Gà có 1 giấc ngủ ngon.
_ Rượu: ngoài tác dụng làm ấm Gà vào buổi tối, rượu còn có tác dụng rất tốt trong việc phòng chống muỗi, thứ côn trùng làm cho Chiến Kê của bạn ko ngủ ngon giấc và mất sức trong những trận đấu.
_ Trà: nước trà đặc được phết lên da gà mỗi ngày 2 lần sẽ có tác dụng rất tốt phòng chống các bệnh nấm mốc, lác mồng, vảy bọng, nang lườn... Ngoài ra, theo 1 số Sư Kê cho biết: nếu kết hợp tắm gà hằng ngày bằng nước trà loãng và phết nước trà đặc lên da gà thường xuyên thì khi vô tay sẽ có cảm nhận rất khác (dẻo như đất sét) so với những chiến kê tắm nước ấm và vô rượu nghệ (cứng như cục sắt). Theo kinh nghiệm của họ thì Gà dùng nước trà sẽ có những bước di chuyển khéo léo, đòn thế uyển chuyển và tránh né nhanh nhẹn. Các Sư Kê còn truyền lại 1 bí quyết nữa, khi Gà khoảng 8-10 tháng, cho uống 1 lượng 10ml nước trà đặc sau bữa chiều, nếu sáng hôm sau thấy gà đi phân có nhớt thì thành công. Bí quyết này giúp Gà vẫn có 1 đôi chân chắc khỏe sau 2-3 mùa lông mà ko có dấu hiệu yếu khớp gối như những Chiến Kê khác ko đc áp dụng.
c) Cách chăm sóc:
_ Gà thiếu nắng sẽ có nguy cơ ủ rất nhiều loại bệnh như: rụng lông, chí rận, tái mặt, lác mồng, nấm mốc… vì thế, ít nhất mỗi ngày Gà phải được phơi nắng 1 lần, thời gian phơi nắng khoảng 15-20’ trong tầm từ 7:00 đến 10:00 sáng. 
_ Việc ăn uống phải tuân thủ nghiêm ngặt về giờ giấc, tránh Gà bị rối loạn tiêu hóa sẽ dẫn đến 1 số bệnh như: ko tiêu, biếng ăn, đi phân trắng…
_ Ngủ nghỉ cũng phải đúng giờ, nếu thấy gà hay ngủ gật ban ngày thì chắc chắn rằng ban đêm Gà ngủ ko ngon giấc vì bị muỗi cắn, bị giật mình vì ồn ào hoặc bị bỏ đói…

nguồn : sưu tầm

Phép xem mạng gà theo Kê kinh

Phép xem mạng gà theo Kê kinh

Mọi người đều biết rằng kết quả thi đấu ngày nay hầu như phụ thuộc vào bổn bang và chế độ nuôi dưỡng. Nhưng một khi bổn bang và chế độ nuôi dưỡng là như nhau, mà điều này vốn là xu hướng chung, thì màu mạng chính là yếu tố tạo nên sự khác biệt. Chẳng hạn, ba mươi năm trước, chỉ một số ít sư kê ở Philippines sở hữu gà đá Mỹ nòi xịn, ngày nay thì hầu hết sư kê đều có thể tiếp cận những dòng gà danh tiếng này, bởi có rất nhiều trại gà cạnh tranh lẫn nhau để cung cấp gà đá chất lượng cho thị trường. Bổn bang tuy cực kỳ quan trọng nhưng nếu ai cũng có thì không thể lấy đó làm lợi thế. Các phương pháp biệt dưỡng và ốp cũng vậy, đa phần những sư kê nghiêm túc đều coi trọng và nắm vững cách thực hiện những công đoạn này. Bởi vậy, việc thành bại đôi khi lại do những yếu tố rất nhỏ quyết định. Chúng ta có thể coi phép xem màu mạng là một trong những yếu tố như vậy.

Phép này vốn được lưu truyền trong dân gian. Một điều chắc chắn là nó đã xuất hiện từ rất lâu vì gắn liền với một học thuyết cổ xưa: “thuyết Ngũ Hành”. Ngày nay, vẫn còn rất nhiều sư kê tin tưởng và áp dụng phép này vào các trận đá gà. Nó bao gồm nhiều yếu tố vốn không thể “định lượng”, điều dẫn đến khó khăn trong việc phân tích và đối chiếu. Bởi vậy mà có nhiều biến thể hay còn gọi là “môn phái” màu mạng khác nhau ra đời, mỗi “môn phái” lại sử dụng một tập hợp các yếu tố khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu phép xem màu mạng theo Kê kinh, một trong những tài liệu xưa nhất về chủ đề gà chọi xuất hiện cách nay hơn một thế kỷ.

Về nguồn gốc của Kê kinh, chúng ta không có thông tin nào khác ngoài mấy chữ “sách gà Phạm Công”. Tất cả những gì mà chúng ta biết ngày nay đều qua bản dịch nôm Kê kinh diễn nghĩa dạng thơ lục bát của Giao-hòa, lão-nhiêu Nguyễn Phụng Lãm. Bài được đăng trên báo Nông-cổ mín-đàm vào năm 1902. Điều dẫn đến suy đoán rằng sách được viết bằng chữ Hán hoặc Hán-Nôm. Bảo bản dịch là Kê kinh cũng được mà bảo không phải cũng được bởi chúng ta chỉ thấy ý chứ không hề thấy hình. Có quan điểm cho rằng tác giả Kê kinh là Tả Quân Lê Văn Duyệt (1763-1832). Tương truyền, Đức Ngài rất ham mê môn chọi gà và nuôi đến hàng ngàn chiến kê để nghiên cứu các phép xem tướng, xem vảy và đặc biệt là màu mạng gà. Tựu trung, nội dung của phép xem màu mạng này bao gồm bốn phần:

*Phân tích sắc lông chiến kê cùng với hành tương ứng.
*Sinh khắc của màu lông.
*Sinh khắc theo mùa (tứ thời sinh khắc).
*Sinh khắc theo ngày (nhật thần sinh khắc).

Màu lông

Kim=gà nhạn
Mộc=gà xám
Thủy=gà ô
Hỏa=gà điều, gà tía
Thổ=gà ó vàng

*Hành mộc có màu xanh, nhiều người thắc mắc tại sao lại xếp gà xám vào hành mộc? Nếu quan sát kỹ màu xám có ánh xanh, người phương Tây nhận ra điều này nên họ gọi là “blue” thay vì “grey”. Có lẽ vì vậy mà gà xám được xếp vào hành mộc. Gà “grey” là gà chuối, đặc biệt là những con mà hắc sắc tố lan đến lông bờm và lông mã gọi là “chuối bùn”. Đấy là màu xám thuần túy không lẫn sắc xanh.

*Màu vàng có khi được xếp vào hành kim, màu nâu được xếp vào hành thổ nhưng Kê kinh lại xếp màu vàng vào hành thổ, ở đây chúng ta sẽ xem màu nâu như là “đỏ pha đen” tức “hỏa pha thủy”. Chẳng hạn tía bịp (điều mật) ngả tông nâu, hành chính vẫn là hỏa, nhưng pha thủy. 

*Tên gọi đôi khi không phản ánh đúng thực chất, chẳng hạn gà “điều” hay “tía” có nhiều tông màu khác nhau từ đỏ, cam cho đến vàng. Nếu ngả sang tông vàng thì nên xếp vào hành thổ (thay vì hành hỏa). Hoặc gà khét điều hành hỏa, nhưng khét vàng lại là hành thổ.

*Kê kinh viết “Cứ theo sắc chánh mà suy”, nếu gà có nhiều màu khác nhau thì dựa vào màu chính mà xem hành. Màu chính là màu ở thân và cánh, những màu ở đuôi, lông mã, lông bờm là phụ (gà chọi xưa có ít lông bờm). Những hoa văn như lau (đuôi và cánh lẫn màu trắng), bông, nổ (đốm trắng), cú (vạch) cũng là phụ.
Giả như xám trổ mã vàng,
Thiệt là sắc mộc màu vàng kể chi.
Bông nổ mã ô đen sì,
Màu thời chẳng kể, kể thì thủy ô.
Như vàng mã chuối trỏ vô,
Kể là sắc thổ chuối dò làm chi.
*Màu tía (điều) là một ngoại lệ. Màu tía điển hình có lông bờm, lông mã và một phần của vai, cánh màu đỏ, trong khi thân và đuôi màu đen. Nếu bám sát định nghĩa ở trên thì màu tía thuộc hành thủy bởi thân màu đen, chỉ có gà khét mới đúng là hành hỏa. Đây là điểm mâu thuẫn của Kê kinh, bằng không gà tía (điều) trong bài này ám chỉ đến “gà khét” chứ không như cách mà chúng ta hiểu ngày nay.

*Có sách gà viết “gà có đủ năm màu tương ứng với ngũ hành là gà ngũ sắc, gà ngũ sắc không theo mạng”. Kê kinhkhông đề cập gì đến việc này mà chỉ nói lấy sắc chính làm đại diện.



Ngũ hành luận

*Tương sinh: nghĩa là hỗ trợ, giúp đỡ, kim-->thủy, thủy-->mộc, mộc-->hỏa, hỏa-->thổ, thổ-->kim, đi giáp một vòng, các hành sinh lẫn nhau.
*Tương khắc: là cản trở, khắc chế, kim> mộc, mộc>thổ, thổ>thủy, thủy>hỏa, hỏa>kim, các hành khắc lẫn nhau, không hành nào là vô địch.
*Tương hòa: là bình hòa, không hỗ trợ hoặc cản trở, kim~kim, mộc~mộc, thủy~thủy, hỏa~hỏa, thổ~thổ.
*Tương thừa: hàm ý “thừa thế lấn áp”, chẳng hạn “mộc khắc thổ”, nếu mộc quá mạnh hoặc thổ quá suy thì gọi là “mộc thừa thổ”.
*Tương vũ: hàm ý “khinh nhờn”, chẳng hạn “thủy khắc hỏa”, nếu hỏa quá mạnh hoặc thủy quá suy thì gọi là “hỏa vũ thủy”.

Quan hệ biện chứng
*Tương sinh lại chia ra làm “sinh nhập” và “sinh xuất”; sinh nhập = kẻ khác hỗ trợ mình nhờ vậy gia tăng công lực; “sinh xuất” = mình hỗ trợ cho kẻ khác nên bị hao tổn công lực. Ví dụ: “mộc sinh hỏa” thì mộc là “sinh xuất”, hỏa là “sinh nhập”, mộc hao tổn công lực trong khi hỏa tăng thêm công lực.
*Tương khắc cũng chia làm “khắc nhập” và “khắc xuất”; “khắc nhập” = bị kẻ khác khắc chế; “khắc xuất” = khắc chế kẻ khác. Ví dụ: “thổ khắc thủy” thì thổ là “khắc xuất”, thủy là “khắc nhập”, thổ đè nén thủy, thủy không phát huy được.



Sinh khắc của màu lông

*Nhạn: ăn ó vàng, xám – thua ô, điều.
*Xám: ăn ô, ó vàng – thua điều, nhạn
*Ô: ăn nhạn, điều – thua xám, ó vàng
*Điều: ăn xám, nhạn – thua ó vàng, ô
*Ó vàng: ăn điều, ô – thua nhạn, xám



*Luận “thắng-thua” thì quan hệ tương-khắc rất dễ hiểu, ví như “ta khắc địch” = ta thắng, địch thua, “địch khắc ta” = địch thắng, ta thua (khắc xuất ăn khắc nhập). Nhưng khi bàn về quan hệ tương-sinh thì biết ai thắng, ai thua? Về bản chất thì quan hệ tương-sinh là quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ chứ không phải là quan hệ đối kháng. Tuy nhiên, khi áp dụng vào đá gà thì phải có ăn thua. Căn cứ theo ngũ hành luận thì sinh xuất bị thiệt, mất công lực, sinh nhập được lợi, tăng công lực --> sinh nhập ăn sinh xuất. Ví như “ta sinh địch” = ta thua, địch thắng, “địch sinh ta” = địch thua, ta thắng.

*Kê kinh không nói rõ thắng-thua trong quan hệ tương-sinh như thế nào nhưng ở phần nhật thần sinh-khắc, “sinh nhập” luôn thu được lợi thế trong khi “sinh xuất” bị liệt vào vận hạn. Chẳng hạn, ngày mộc thì gà tía mạnh nhất bởi mộc sinh hỏa, ngày thủy thì gà nhạn (kim) bị rơi vào ngày kỵ. Như vậy, chúng ta có thể mạnh dạn suy luận rằng “sinh nhập ăn sinh xuất”, điều này cũng thuận với ngũ hành luận. Phải nêu rõ như vậy bởi có tồn tại quan điểm trái ngược “sinh xuất ăn sinh nhập”, ví như ta sinh địch = ta thắng, địch thua, địch sinh ta = địch thắng, ta thua.

Tứ thời sinh khắc

*Tứ thời sinh khắc là quan hệ vượng-suy của các hành theo mùa.

*Xuân, hạ, thu, đông: bốn mùa tuần hoàn, hoán chuyển. Cuối mỗi mùa đều có một giai đoạn nhập thổ (tứ quý). Hành đại diện của các mùa: xuân-mộc, hạ-hỏa, thu-kim, đông-thủy, tứ quý-thổ.


*Quan hệ của màu gà theo mùa. Chẳng hạn, gà xám cực thịnh (vượng) vào mùa xuân, mạnh (tướng) và mùa đông, ổn định (hưu) vào mùa hạ, sa sút (tù) vào tứ quý và bại (tử) vào mua thu.


*Quan hệ của mùa theo màu gà. Chẳng hạn, vào mùa đông, gà ô cực thịnh (vượng), gà xám mạnh (tướng), gà nhạn ổn định (hưu), gà ó vàng sa sút (tù) và gà điều bại (tử).


*Khi một hành quá vượng hoặc quá suy sẽ diễn ra sự mất cân bằng trong quan hệ sinh-khắc, hiện tượng khinh lờn hay tương vũ xuất hiện. Các hành ở “vượng”, “tướng” chuyển hung thành cát, các hành ở “tù”, “tử” chuyển cát thành hung. Chẳng hạn:
Mùa xuân mộc thạnh khôn cùng
Gà nhạn tuyết ấy khắc đồng mấy cho
Gà nhạn sa sút (tù) vào mùa xuân. Giả sử gà nhạn đá với gà xám, theo lẽ thường "kim khắc mộc" thì nhạn phải thắng xám. Nhưng vì nhạn sa sút (tù) trong khi xám cực thịnh (vượng) nên "mộc vũ kim", xám thắng ngược nhạn! 

*Mùa thu rơi vào đỉnh điểm của mùa mưa, mùa này gà thường xổ lông, không mấy ai đá nên gà nhạn dù lợi thế cũng không có nhiều cơ hội để thi thố.

*Bảng ở trên dựa vào ngày âm lịch. Chẳng hạn, tra lịch vạn niên (http://www.thoigian.com.vn): ngày 16-10-2011 là ngày 20-9 năm Tân Mão (âm lịch), rơi vào tứ quý (nhập thổ). Theo tứ quý thì thứ tự ưu tiên như sau: ó vàng, nhạn, điều, xám, ô. Tốt nhất nên mang gà ó vàng hay nhạn đi đá, tránh các màu còn lại. Bấm vào đây để xem: ví dụ.

Nhật thần sinh khắc

*Nhật thần sinh khắc là quan hệ sinh-khắc của màu gà đối với hành của ngày.

*Hành của thập thiên can:
Giáp, Ất=mộc
Bính, Đinh=hỏa
Canh, Tân=kim
Nhâm, Quí=thủy
Mậu, Kỷ=thổ

*Tra nhật thần (lịch vạn niên: http://www.thoigian.com.vn): chẳng hạn ngày Ất Mão, theo bảng trên Ất=mộc suy ra ngày Ất Mão hành mộc.



*Ngày kỵ: nếu rơi vào “vận tam lâm” thì không mang gà đi đá; “vận tam lâm” bao gồm các trường hợp sau: gà khắc ngày, ngày khắc gà, gà sinh xuất ngày (mất công lực). Chẳng hạn, ngày Nhâm Thìn hành thủy, các gà ó vàng, nhạn, và điều kỵ ngày, không đá được.
Thổ, kim, hoả, vận tam lâm
Nhựt thần là thủy khắc thâm ba chàng
*Ngày tốt: bình hòa hoặc sinh nhập; chẳng hạn, ngày Ất Mão hành mộc, gà xám và gà điều tốt ngày, đem đá được; nhưng gà điều mạnh hơn vì được tiếp thêm công lực (mộc sinh hỏa).
Ngày nào thuộc mộc tía no
*Một ví dụ về tầm quan trọng của nhật thần: bình thường thì ô ăn tía (thủy khắc hỏa) nhưng vào ngày hỏa thì "hỏa vũ thủy", tía ăn ngược lại ô! 
Tía thuộc mạng hoả là thường,
Ô thủy gặp (ngày) hoả phải nhường anh va
*Ngày âm lịch bao gồm 2 yếu tố: thiên can và địa chi. Thiên can có hành của thiên can, địa chi có hành của địa chi. Khi thiên can kết hợp với địa chi thì chúng ta có một yếu tố thứ 3 là nạp âm, nạp âm cũng có hành riêng. Kê kinh lấy hành của thiên can để tính nhật thần cho gà (mà bỏ qua địa chi và nạp âm), chẳng hạn ngày Giáp Thìn, tra bảng trên: Giáp=mộc suy ra ngày Giáp Thìn hành mộc. Bởi mộc sinh hỏa nên đem gà tía đi đá là lợi nhất, kế đó là gà xám. Bấm vào đây để xem: ví dụ.

*Nhiều cách xem mạng gà khác dựa vào nạp âm. Nạp âm là kết hợp của can chi theo bảng Lục thập hoa giáp. Bảng này có nguồn gốc cổ xưa và người ta vẫn thường áp dụng vào việc bói toán, xem tuổi cho người. Chẳng hạn, ngày Giáp Thìn hành hỏa nhưng là “phú đăng hỏa” (lửa đèn). Có vài ba loại hành hỏa và các hành khác như kim, mộc, thủy, thổ cũng vậy. Dẫu Kê kinh không sử dụng nạp âm trong tính toán nhật thần nhưng cũng xin liệt kê ra đây để tránh nhầm lẫn!

*Một trong những khác biệt của bản Kê kinh diễn nghĩa đăng trên báo Nông cổ mín đàm (1902) với những bản Kê kinh lưu hành trong dân gian (và được các sách gà ngày nay đăng lại) là phần nói về “nhật thần sinh khắc”. Bản đăng trên báo hơi lủng củng, và có đôi chỗ mâu thuẫn về “ngũ hành luận” nhưng vẫn truyền tải được nội dung chính; trong khi các bản “chỉnh lý” lưu hành trong dân gian hầu như cắt bỏ phần này và thay bằng vài ba câu đơn giản, tuy đúng nhưng lại không đầy đủ.

Thảo luận

*Xem ra việc xác định sắc lông chính của gà là quan trọng nhất bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến màu mạng mà còn đến các yếu tố khác như tứ thời sinh-khắc và nhật thần sinh-khắc. Đôi khi, việc này không hề dễ dàng vì gà chọi ngày nay được lai tạo với nhiều màu sắc khác lạ, chẳng hạn những màu pha như cam hay nâu. Hoặc giả, gà có hai, ba màu mà không màu nào tỏ ra vượt trội thì biết lấy màu nào làm sắc chính? Do vậy, nếu coi trọng phép xem mạng này thì người chơi nên chọn màu gà không rơi vào trạng thái lửng lơ, hành phải thể hiện một cách rõ rệt. Có như vậy thì việc tính toán mới thuận lợi.

*Nếu tuân theo quy luật “màu xanh thuộc hành mộc” thì chỉ có những màu lông lẫn sắc xanh như xám khô (blue) hay tóe (splash) thuộc về hành mộc. Màu xám không lẫn sắc xanh, chẳng hạn như màu bờm, mã của gà chuối bùn, là màu pha trắng-đen (kim pha thủy). Tham khảo ở đây.

*Bông “cú” là một dạng hoa văn đặc biệt (tham khảo ở đây). Bất kể gà gì, hễ dính chút bông “cú” đều được gọi là “gà cú” bởi vậy, gà cú có rất nhiều biến thể khác nhau. Gà cú là gà đa sắc mà trong đa số trường hợp, rất khó để nhận biết đâu là sắc lông chính. Hai dạng cú điển hình ở gà chọi bao gồm cú thuần (thân vằn đen trắng, bờm vằn vàng) --> hành thổ pha kim pha thủy, cú vằn (vằn đen trắng) --> hành kim pha thủy. Còn đây là ví dụ về những con gà cú mà chúng ta có thể xác định được sắc lông chính: ví dụ 1 (hành thổ), ví dụ 2 (hành kim).

*Trên thực tế, phép xem màu mạng gà phổ biến đến nỗi người ta không cho đối phương nhìn thấy gà khi cáp, gà được cất trong giỏ, cáp theo cân nặng, một khi hai bên đồng ý là lấy ra đá luôn. Bỏ đá sẽ bị phạt.

*Lưu ý đến quan hệ “tương vũ”. Kê kinh nhấn mạnh đến quan hệ này trong các phần tứ thời sinh-khắc và nhật thần sinh-khắc. Qua đó, chúng ta nhận thấy hai phần này quan trọng hơn hẳn sinh-khắc của màu lông.

*Bởi không thể biết trước màu lông gà địch, mỗi khi ra trận, chúng ta chỉ có thể tính toán tứ thời sinh-khắc và nhật thần sinh-khắc sao cho có lợi nhất cho gà của mình. Theo Kê kinh thì hai yếu tố này quan trọng hơn so với sinh-khắc của màu lông. Chẳng hạn, vào mùa xuân thì gà xám mạnh nhất kế đó là gà điều, khi đem gà xám đi đá thì chọn ngày thủy, kế đó là ngày mộc; khi đem gà điều đi đá thì chọn ngày mộc, kế đó là ngày hỏa. Bởi trường gà thường mở vào cuối tuần, chúng ta cần tính tiếp xem ngày cuối tuần nào là phù hợp. Sau khi xác định được màu gà và ngày xuất trường rồi thì lên kế hoạch biệt dưỡng và ốp sao cho gà tới độ vào đúng thời điểm dự tính. Tham khảo thêm ở đây.

*Còn một số cách tính nữa tuy Kê kinh không bàn đến nhưng vẫn có người áp dụng, chẳng hạn:

Sinh khắc theo giờ: dưới đây là bảng quy đổi từ giờ sang hành. Một khi có hành, chúng ta sẽ tra theo bảng ở phần “nhật thần sinh khắc” để tránh giờ kỵ, chọn giờ thuận lợi. 


Qua bảng tính giờ này chúng ta sẽ thấy khoảng thời gian đá gà trong ngày (7 giờ sáng đến 5 giờ chiều) ứng với các hành thổ, hỏa và kim. Qua phân tích chúng ta sẽ thấy các màu nhạn, ó vàng và ô đều có những lúc lợi nhất, màu điều cũng có lúc lợi nhưng không bằng. Đặc biệt gà xám luôn bất lợi (trừ phi tổ chức đá lúc nửa đêm!). 

Phương hướng thả gà: mỗi giờ ứng với một hướng, dựa vào đó mà thả gà.


Sinh khắc theo màu chân: vàng ăn chì, chì ăn trắng, trắng ăn xanh và vàng, xanh ăn vàng và chì. 

Nguồn : sưu tầm